Bạn thích ăn sôcôla và đồng ý với tác giả bài báo rằng sản phẩm bánh làm ra là ngon. Tương tự như vậy, nhiều người dùng bách khoa toàn thư để tra cứu ngày tháng, địa điểm và các sự kiện đơn giản khác. Sau đó là các bộ sưu tập tư liệu với tác phẩm chính mà chúng ta biết là bộ sưu tập 158 hiến pháp của các bang thuộc Hy Lạp cổ.
Nó không đáng để nỗ lực. Thứ hai, hãy đọc sử không chỉ để biết chuyện gì đã xảy ra vào một thời điểm cụ thể, ở một nơi nhất định trong quá khứ, mà còn để biết cách con người hành xử trong mọi thời đại và ở mọi nơi, đặc biệt là hiện tại. Kinh nghiệm được dạy học cũng không phải là phổ quát vì có những người chưa bao giờ đi học.
Ví dụ, sau khi đọc hết Phần 2 cuốn sách này, nếu bạn nhất trí rằng rất đáng bỏ sức ra để đọc phân tích và chấp nhận coi các quy tắc đọc như một công cụ trợ giúp mục đích đó thì bạn phải bắt đầu đọc theo cách mà chúng tôi miêu tả. Tuy nhiên, khi chúng tôi hỏi 25 độc giả rằng tại sao chương đầu tiên của cuốn sách lại có tên là Quy mô và lực lượng quân sự của Đế chế La Mã trong thời kỳ cai trị của Antonines, tất cả đều không biết. Phần thảo luận này gợi ý cho bạn về hai câu hỏi lớn mà bạn phải tự hỏi bản thân khi đọc bất kỳ loại sách thực hành nào.
Vì toán học là một ngôn ngữ nên nó có vốn từ riêng, ngữ pháp riêng. Những điều mà bằng kinh nghiệm của mình, chúng ta nói rằng chúng tồn tại nhưng chúng cũng có thể thay đổi Chúng ra đời và mất đi, di chuyển từ nơi này đến nơi khác trong quá trình tồn tại và nhiều thứ thay đổi cả về số lượng và chất lượng để trở nên to hơn hay nhỏ hơn, nặng hơn hay nhẹ hơn hoặc thay đổi màu sắc… Một người đọc một cuốn sách hay mà vẫn bị ngủ quên chưa hẳn là vì họ không cố gắng, mà vì họ không biết cách cố gắng như thế nào.
Ông dùng từ pointer-reading để chỉ việc đọc các con số hay ký hiệu trên các dụng cụ khoa học, tức là sử dụng từ reading theo nghĩa hoàn toàn thông dụng chứ không phải theo nghĩa chuyên môn. Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản. Những trang này nên được dành để ghi lại những suy nghĩ của bạn.
Đồng thời chúng cũng không hề dễ đọc chút nào. Nó có thể đưa ra các nguyên tắc hay yếu tố đặc trưng làm nền tảng cho các quy tắc, khiến chúng dễ hiểu. Đến đây có thể xảy ra tình huống độc giả nói: Tôi không thể chê những kết luận tác giả đưa ra, nhưng tôi không thể dồng ý với chúng.
Bài luận của William Harvey về sự tuần hoàn máu hay sách của William Gilbert về nam châm cũng không phải là tác phẩm toán học. Do đó, điều quan trọng nhất cần đặt biệt chú ý khi đọc bất cứ bản tường thuận sự kiện thời sự nào là: Ai viết bản tường thuật đó? Để hiểu được tâm trí phóng viên thuộc loại bộ lọc nào, chúng ta phải đặt ra một loạt câu hỏi như sau: Trong bất cứ trường hợp nào, tốc độ đọc nhanh hay chậm chỉ là một phần nhỏ đối với hầu hết mọi người khi đọc sách.
Không ai đưa ra những đánh giá thực tiễn nghiêm túc hay bắt tay làm một việc gì mà không có chút cảm xúc nào. Nắm bắt những nhận định chủ chốt của tác giả trên cơ sở xem xét những câu hỏi quan trọng. Cần hiểu rằng bạn đọc cuốn sách kỹ không phải vì bản thân nó hay mà vì nó cung cấp nhiều vấn đề mà bạn đang tìm hiểu.
Giao tiếp giữa người viết và người đọc chỉ thành công khi những gì người viết muốn chuyển tải có thể đi vào lòng độc giả. Tương quan về phía độc giả và người nghe, kỹ năng tu từ chính là biết cách đáp lại người cố thuyết phục hoặc làm cho chúng ta tin vào điều gì đó. Việc viện đến các yếu tố đặc trưng thường kém thuyết phục hơn, nhưng lại có thể giải thích các quy tắc cặn kẽ hơn so với việc lấy ví dụ về việc sử dụng các quy tắc.
Đây là một hình phạt khủng khiếp vì đã có những bằng chứng cho thấy nó là một căn bệnh dẫn đến chết người. Quá trình đọc phân tích đã xong và bạn đã hiểu, đã bị thuyết phục. Có mối quan hệ chặt chẽ với quy tắc 6 là quy tắc 7.