Có lẽ cũng đúng nếu nói rằng khi đọc để lấy thông tin hoặc giải trí, bạn sẽ ít phải suy nghĩ hơn so với người đọc để khám phá một cái gì đó. Họ nhất quyết từ chối sử dụng dù ít hay nhiều các thuật ngữ hay khái niệm chuyên ngành trong báo chí phổ thông và các tài liệu khác. Tuy nhiên, cách này sẽ không hiệu quả nếu bạn không tỉnh táo khi đọc sách.
Tác giả chắc chắn phải hiểu nhiều hơn độc giả, và sách của họ phải chuyển lại những hiểu biết của họ có nhưng độc giả không có. Khi bạn tìm hiểu một bài thơ hay, đọc đi đọc lại, trăn trở suy nghĩ về nó trong suốt cuộc đời, bạn sẽ luôn tìm thấy ở đó có những điều mới mẻ, những niềm vui hạnh phúc và cả những ý tưởng mới về bản thân bạn cũng như thế giới. Bạn có thể đọc các tác phẩm này để thấy được quan điểm y học phòng bệnh hơn chữa bệnh của Hyppocrates.
Tuy nhiên, hầu hết các tác giả có năng lực đều dự đoán được điều này và luôn đưa ra những chú ý rõ ràng trước khi chuyên môn hoá một từ nào đó. Có bao nhiêu loại thay đổi? Có phải các yếu tố hay điều kiện cơ bản đều có mặt trong mọi quá trình biến đổi và trong mọi trường hợp các nguyên nhân đều giống nhau không? Chúng ta ngụ ý gì khi nói nguyên nhân thay đổi? Có các loại nguyên nhân khác nhau gây thay đổi? Các nguyên nhân gây thay đổi có giống các nguyên nhân tồn tại không? Đến đây, bạn có thể quay trở lại phần mục lục của cuốn sách này nếu bạn chưa đọc nó.
Một cuốn sách khoa học có mục đích chính là truyền tải kiến thức. Khi bị lão hoá, trí tuệ mới mất đi sức mạnh tăng kỹ năng và hiểu biết. Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading.
Khi đọc tiểu thuyết, điều tương tự cũng diễn ra. Chỉ nên dùng từ điển khi bạn gặp phải thuật ngữ hoặc các từ hoàn toàn mới. Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading.
Bạn đừng quên rằng một từ có thể biểu thị nhiều thuật ngữ. Đến đây, chúng ta đã tìm ra các phần trong sách có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu; tạo được một hệ thống thuật ngữ trung lập có thể áp dụng với tất cả hoặc đa số các tác giả; tạo khung và sắp xếp một loạt câu hỏi coi như sẽ được giải đáp trong các sách; xác định và sắp xếp các vấn đề nảy sinh từ các câu trả lời khác nhau. Đến đây, bạn có thể trả lời được câu hỏi cơ bản thứ hai là điều gì đang được đề cập chi tiết và bằng cách nào thông qua việc áp dụng các quy tắc từ 5 đến 8.
Không có sự giúp đỡ nào khác ngoài trí óc. Đó là cách tốt nhất để kiểm tra xem bạn đã hiểu về một hay nhiều nhận định trong câu chưa. Độc giả có nhiệm vụ và cũng chính là cơ hội đáp trả lại tác giả bằng cách nêu nhận xét của bản thân.
Để có thể sử dụng tối đa chức năng của từ điển, người đọc cần phải nắm được phương pháp tra cứu nó. Điều này xuất phát từ bản chất phức tạp của con người. Cũng có trường hợp ngoại lệ.
Homer, Virgil, Dante, Milton là những tác giả mà ngay cả những nhà thơ xuất sắc nhất cũng phải tìm đọc tác phẩm của họ. Người đọc đồng chủ đề chắc chắn sẽ thất bại trong việc nhìn nhận mọi ý kiến. Bài luận của William Harvey về sự tuần hoàn máu hay sách của William Gilbert về nam châm cũng không phải là tác phẩm toán học.
Người ném bóng hay đánh bóng chính là người gửi thông tin theo nghĩa là hành động của họ khiến quả bóng chuyển động. Ưu điểm lớn của hình thức cách ngôn trong triết học là nó khiến người đọc phải suy nghĩ. Đồng thời, người nghe còn có trách nhiệm rút ra một quan điểm để nó trở thành quan điểm của bản thân chứ không còn là của tác giả nữa.