Sự phỏng đoán về việc mất tích của một con tàu vượt đại dương, mà người ta nhầm tưởng rằng nó đã bị đắm ngoài biển xa, đã đặc biệt kích thích trí tưởng tượng của đám đông tám ngày liền. Liệu nó cũng sẽ diễn ra như vậy đối với nền văn hóa của chúng ta? Sợ rằng sẽ thế, tuy nhiên cái đó chúng ta chưa biết. Cách hiệu quả nhất là dẫn ra một ví dụ.
Việc diễn tả một cách chính xác tâm hồn đám đông quả không dễ, bởi tổ chức của nó không chỉ biến thiên theo chủng tộc và cấu trúc của đám đông, mà còn biến thiên theo bản chất và mức độ của sự kích thích tác động vào đám đông đó. Những sự kiện lịch sử lớn cũng thường hay được làm nên bởi những tín đồ không tên tuổi, những người chẳng có gì ngoài niềm tin. Tâm lý đám đông cho thấy, sự tác động của thiết chế và luật pháp vào bản chất tự nhiên của đám đông đặc biệt yếu ớt như thế nào, và nó chỉ ra rằng đám đông không có khả năng có những quan điểm riêng ra sao, ngoại trừ những điều được đưa vào từ bên ngoài.
Tính không khoan dung, tính độc đoán và tính bảo thủ của đám đông Đó là vì những hành động bạo lực của nó đã làm cho ta hiểu không đúng về điểm này. Có phải đám đông không bao giờ được dẫn dắt bởi lý trí là một điều đáng tiếc? Chúng tôi không dám khẳng định cái điều như vậy.
Sự ra đời của quyền lực đám đông bắt đầu trước hết từ sự lan truyền của những luồng tư tưởng nào đó, chậm chạp chiếm cứ đầu óc mọi người, sau đó qua sự kết hợp dần dần từng con người một để hiện thực hóa những quan điểm cho đến lúc này vẫn còn là lý thuyết. Một thương gia đã phải rất khó nhọc khi đi tìm một người thay thế trong đám đó, nhưng trong khi đó lại có hàng ngàn người chầu chực để cố vào được các vị trí bình thường nhất của chốn công quyền. Những sự thay đổi duy nhất có ý nghĩa - là những thay đổi nảy sinh từ sự đổi mới về văn hóa - xảy ra bên trong các quan điểm, bên trong các khái niệm và niềm tin.
Thành viên của đám đông cũng sẽ ở trong một trạng thái tương tự như trạng thái trên. Có loại khác, thường hiếm thấy hơn nhiều, là những người có ý chí mạnh mẽ và bền bỉ. Sự nhẹ dạ khi khái quát hóa những ý kiến nhất định nào đó phụ thuộc trước hết vào sự thiếu khả năng để có thể đưa ra một ý kiến của chính mình, trên cơ sở của những suy luận đặc biệt, ở phần đông các con người.
Sự kiện nào có ảnh hưởng như thế nào vào quá trình dự thảo một một điều luật, vào mỗi một bài diễn văn là điều rất có giá trị để biết đối với họ. Cụ thể họ sử dụng chủ yếu ba loại: sự khẳng định, sự lặp lại, và sự truyền lan hoặc truyền nhiễm (contagion). Các con số thống kê đến giờ cho thấy, trong cùng những năm đó có tới hàng ngàn chiếc tàu lớn bị đắm.
Sắp tới chúng ta sẽ có dịp quay lại điểm này khi nghiên cứu về tính đạo đức của đám đông. Sự thống trị của các lãnh đạo cực kỳ tàn bạo và uy tín của họ có được cũng chỉ nhờ vào sự tàn bạo này. Một sự giật mình, hay một động tác hoảng loạn của một con cừu nào đó sẽ nhanh chóng lan ra cả đàn.
Mặt khác dường như những con người hoặc hình tượng mà chúng ta không hề ngưỡng mộ, ví dụ như những vị thần ghê tởm trong các chùa chiền trong lòng đất ở Ấn độ cũng có một uy lực cực mạnh. Ngay cả lúc người ta tưởng rằng giữa đám đông không hề có một thứ liên kết nào, thường cũng là lúc nó đang ở trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, thuận lợi cho việc tiếp nhận một tác động nào đó vào nó. Những thần tượng kinh khủng nhất không trú ngụ ở các đền đài, và những kẻ chuyên chế tàn bạo nhất không sống trong các cung điện.
Giả như những đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày không phải là một dạng luật lệ vô hình đối với các tình huống, thì những chính thể dân chủ cũng sẽ không tồn tại được. Bởi thế một nghị viện trong mỗi một nhiệm kỳ bên cạnh những quan điểm rất kiên định còn có những quan điểm khác rất dễ thay đổi. Không có nó có lẽ con người không thể để lại đằng sau mình những cái tàn bạo nguyên thủy, và không có nó con người chẳng bao lâu sẽ lại quay trở lại với cái tàn bạo đó.
Cùng lắm là họ có thể thử nương nhờ vào những ảnh hưởng khác để tự làm xao lãng mình. Tính chất này ngược với tính cách tự nhiên của con người và con người chỉ có thể làm được điều đó khi nó là thành viên của đám đông. Thứ nhất, các giáo lý cũ đã ngày càng bị mất đi ảnh hưởng của chúng và không còn có thể định hướng được cho ý niệm như trước đây.